Lịch sử hoá học
Hóa học phát triển từ giả kim thuật, đã được thực hành từ hàng ngàn năm trước ở Trung Hoa, Châu Âu và Ấn Độ.
Khoa
giả kim thuật nghiên cứu về vật chất, nhưng thế giới của những nhà giả
kim thuật đều dựa trên kinh nghiệm thực tế và công thức bắt nguồn từ
thực hành chứ không dựa vào những nghiên cứu khoa học. Mục đích của họ
là một chất gọi là "Hòn đá thông minh" dùng để biến đổi những chất như
chì thành vàng. Các nhà giả kim thuật đã tiến hành rất nhiều thí nghiệm
để tìm ra chất này qua đó họ đã phát triển nhiều dụng cụ mà ngày nay
vẫn còn được sử dụng trong kỹ thuật hóa học.
Nhưng không một nhà
giả kim thuật nào tìm ra được hòn đá thông minh đó và trong thế kỷ thứ
17, các phương pháp làm việc của khoa giả kim thuật được thay đổi bằng
những phương pháp khoa học. Một phần kiến thức của các nhà giả kim
thuật được sử dụng bởi các nhà hóa học, những người làm việc dựa vào
kết luận hợp lý của những gì mà họ quan sát được chứ không dựa vào ý
nghĩ biến hóa chì thành vàng.
Lịch sử của hóa học có thể được
coi như bắt đầu từ lúc Robert Boyle tách hóa học từ khoa giả kim thuật
trong tác phẩm The Skeptical Chemist (Nhà hóa học hoài nghi) vào năm
1661 nhưng thường được đánh dấu bằng ngày Antoine Lavoisier tìm ra khí
ôxy vào năm 1783.
Hóa học như là một môn khoa học đã có được
nhiều thúc đẩy vào thế kỷ 19. Những nghiên cứu của Justus von Liebig về
tác động của phân bón đã thành lập ra ngành Hóa nông nghiệp và cung cấp
nhiều nhận thức cho ngành hóa vô cơ. Cuộc tìm kiếm một hóa chất tổng
hợp thay thế cho chất màu indigo dùng để nhuộm vải là bước khởi đầu của
những phát triển vượt bậc cho ngành hóa hữu cơ và dược. Một đỉnh cao
trong việc phát triển ngành hóa học là phát minh bảng tuần hoàn nguyên
tố của Dmitri Ivanovich Mendeleev và Lothar Meyer. Mendelev đã sử dụng
quy luật của bảng tuần hoàn để tiên đoán trước sự tồn tại và tính chất
của germanium, gallium và scandium vào năm 1870. Gallium được tìm thấy
vào năm 1875 và có những tính chất như Mendeleev đã tiên đoán trước.
Nghiên
cứu trong hóa học đã phát triển trong thời kỳ chuyển tiếp sang thế kỷ
20 đến mức các nghiên cứu sâu về cấu tạo nguyên tử đã không còn là lãnh
vực của hóa học nữa mà thuộc về vật lý nguyên tử hay vật lý hạt nhân.
Mặc dù vậy các công trình nghiên cứu này đã mang lại nhiều nhận thức
quan trọng về bản chất của sự biến đổi chất hóa học và của các liên kết
hóa học. Các động lực quan trọng khác bắt nguồn từ những khám phá trong
vật lý lượng tử thông qua mô hình quỹ đạo điện tử.
Hóa học phát triển từ giả kim thuật, đã được thực hành từ hàng ngàn năm trước ở Trung Hoa, Châu Âu và Ấn Độ.
Khoa
giả kim thuật nghiên cứu về vật chất, nhưng thế giới của những nhà giả
kim thuật đều dựa trên kinh nghiệm thực tế và công thức bắt nguồn từ
thực hành chứ không dựa vào những nghiên cứu khoa học. Mục đích của họ
là một chất gọi là "Hòn đá thông minh" dùng để biến đổi những chất như
chì thành vàng. Các nhà giả kim thuật đã tiến hành rất nhiều thí nghiệm
để tìm ra chất này qua đó họ đã phát triển nhiều dụng cụ mà ngày nay
vẫn còn được sử dụng trong kỹ thuật hóa học.
Nhưng không một nhà
giả kim thuật nào tìm ra được hòn đá thông minh đó và trong thế kỷ thứ
17, các phương pháp làm việc của khoa giả kim thuật được thay đổi bằng
những phương pháp khoa học. Một phần kiến thức của các nhà giả kim
thuật được sử dụng bởi các nhà hóa học, những người làm việc dựa vào
kết luận hợp lý của những gì mà họ quan sát được chứ không dựa vào ý
nghĩ biến hóa chì thành vàng.
Lịch sử của hóa học có thể được
coi như bắt đầu từ lúc Robert Boyle tách hóa học từ khoa giả kim thuật
trong tác phẩm The Skeptical Chemist (Nhà hóa học hoài nghi) vào năm
1661 nhưng thường được đánh dấu bằng ngày Antoine Lavoisier tìm ra khí
ôxy vào năm 1783.
Hóa học như là một môn khoa học đã có được
nhiều thúc đẩy vào thế kỷ 19. Những nghiên cứu của Justus von Liebig về
tác động của phân bón đã thành lập ra ngành Hóa nông nghiệp và cung cấp
nhiều nhận thức cho ngành hóa vô cơ. Cuộc tìm kiếm một hóa chất tổng
hợp thay thế cho chất màu indigo dùng để nhuộm vải là bước khởi đầu của
những phát triển vượt bậc cho ngành hóa hữu cơ và dược. Một đỉnh cao
trong việc phát triển ngành hóa học là phát minh bảng tuần hoàn nguyên
tố của Dmitri Ivanovich Mendeleev và Lothar Meyer. Mendelev đã sử dụng
quy luật của bảng tuần hoàn để tiên đoán trước sự tồn tại và tính chất
của germanium, gallium và scandium vào năm 1870. Gallium được tìm thấy
vào năm 1875 và có những tính chất như Mendeleev đã tiên đoán trước.
Nghiên
cứu trong hóa học đã phát triển trong thời kỳ chuyển tiếp sang thế kỷ
20 đến mức các nghiên cứu sâu về cấu tạo nguyên tử đã không còn là lãnh
vực của hóa học nữa mà thuộc về vật lý nguyên tử hay vật lý hạt nhân.
Mặc dù vậy các công trình nghiên cứu này đã mang lại nhiều nhận thức
quan trọng về bản chất của sự biến đổi chất hóa học và của các liên kết
hóa học. Các động lực quan trọng khác bắt nguồn từ những khám phá trong
vật lý lượng tử thông qua mô hình quỹ đạo điện tử.
nguồn : Wikipedia