Tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục
Trong di sản tư tưởng Hồ Chí Minh, tư tưởng về giáo dục luôn có ý nghĩa lý luận và thực tiễn sâu sắc đối với sự nghiệp cách mạng Việt Nam.
Trong sự nghiệp đào tạo nguồn nhân lực cho công cuộc công nghiệp hoá,
hiện đại hoá đất nước, thực hiện mục tiêu "dân giàu, nước mạnh, xã hội
công bằng, dân chủ, văn minh" ở nước ta, tư tưởng đó của Người càng có ý
nghĩa thiết thực.
Tư tưởng giáo dục Hồ Chí Minh không bó hẹp trong việc
giáo dục tri thức, học vấn cho con người, mà có tính bao quát, sâu xa,
nhưng vô cùng sinh động, thiết thực, nhằm đào tạo ra những con người
toàn diện, vừa "hồng" vừa "chuyên", có tri thức, lý tưởng, đạo đức sức
khoẻ, thẩm mỹ...
Tư tưởng Hồ Chí Minh
về giáo dục vừa là thành qủa của sự chắt lọc tinh tế tinh hoa văn hoá
dân tộc và nhân loại, vừa mang đậm hơi thở của cuộc sống. Do vậy, ở Hồ Chí Minh,
lý luận giáo dục và thực tiễn giáo dục có sự thống nhất hữu cơ, không
tách rời nhau. Đúng như Nghị quyết UNESCO đánh giá: "Sự đóng góp quan
trọng về nhiều mặt của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong các lĩnh vực văn hoá,
giáo dục và nghệ thuật là kết tinh của truyền thống hàng ngàn năm của
nhân dân Việt Nam và những tư tưởng của Người là hiện thân của những
khát vọng của các dân tộc trong việc khẳng định bản sắc dân tộc của mình
và tiêu biểu cho việc thúc đẩy sự hiểu biết lẫn nhau”.
Có thể nói, tư tưởng giáo dục Hồ Chí Minh là sự kế thừa,
tiếp thu có chọn lọc, sáng tạo và phê phán từ các tiền đề: Một là, chủ
nghĩa yêu nước, truyền thống văn hoá, giáo dục và tinh thần nhân ái Việt
Nam, Hai là, triết lý giáo dục phương Đông, đặc biệt là triết lý nhân
sinh của Nho, Phật, Lão và Ba là, những tư tưởng tiến bộ thời kỳ cận
đại. Nhưng tiền đề quan trọng nhất, cái tạo nên sự phát triển về chất
trong tư tưởng giáo dục Hồ Chí Minh là chủ nghĩa Mác - Lênin. Trên cơ sở
đó và cùng với quá trình hoạt động thực tiễn cách mạng sinh động, phong
phú của mình, Hồ Chí Minh đã đưa ra quan điểm hết sức sâu sắc và mới mẻ
về vai trò, mục đích, nội đung và phương pháp giáo dục.
Về vai trò và mục đích của giáo dục. Theo Hồ Chí Minh,
giáo dục có vai trò hết sức to lớn trong việc cải tạo con người cũ, xây
dựng con người mới. Người nói: "Thiện, ác vốn chẳng phải là bản tính cố
hữu, phần lớn đều do giáo dục mà nên".
Không những thế, giáo dục còn góp phần đắc lực vào công cuộc bảo vệ và xây dựng đất nước. Người kêu gọi:
"Quốc dân Việt Nam!
Muốn giữ vững nền độc lập,
Muốn làm cho dân mạnh nước giàu,
Mọi người Việt Nam...
phải có kiến thức mới để có thể tham gia vào công cuộc xây dựng nước
nhà, và trước hết phải biết đọc, biết viết chữ quốc ngữ".
Từ thực trạng nền giáo dục dưới sự đô hộ của thực dân
Pháp, Hồ Chí Minh đã vạch trần và lên án chính sách giáo dục của thực
dân Pháp là làm cho "ngu dân dễ trị". Bằng ngòi bút với lời lẽ sắc bén,
Người đã chỉ rõ bộ mặt thực của cái gọi là "khai hoá văn minh" của thực
dân Pháp: những người đến trường được "đào tạo nên những kẻ làm tay sai,
làm tôi tớ cho một bọn thực dân người Pháp", những người không đến
trường thì bị đầu độc bằng các thói hư, tật xấu như rượu chè, cờ bạc,
thuốc phiện. Do vậy, theo
Người, để khẳng định chính mình, mỗi người phải thẳng thắn đấu tranh
với cái lỗi thời, lạc hậu và các tệ nạn xã hội. Người viết: "Phải ra sức
tẩy sạch ảnh hưởng giáo dục nô dịch của thực dân còn sót lại như: Thái
độ thờ ơ đối với xã hội, xa rời đời sống lao động và đấu tranh của nhân
dân, học để lấy bằng cấp, dạy theo
lối nhồi sọ. Và cần xây dựng tư tưởng dạy và học để phục vụ Tổ quốc,
phục vụ nhân dân". Thật vậy, ngay từ những năm đầu bước vào đời, khi
tham gia giảng dạy ở trường Dục Thanh, Phan Thiết, tại đây, bên cạnh
việc truyền bá những kiến thức về văn hoá, Hồ Chí Minh còn đặc biệt chú
trọng đến việc truyền thụ tinh thần, truyền thống yêu nước thương nòi
của dân tộc.
Nhưng mục đích cao cả của Hồ Chí Minh - mục đích mà
Người nguyện suốt đời phấn đấu - là mong cho dân tộc, nhân dân có cuộc
sống ấm no, tự do, hạnh phúc. Bởi, đối với Người, "Nếu nước độc lập mà
dân không hưởng hạnh phúc tự do, thì độc lập cũng chẳng có nghĩa lý gì”.
Suốt đời, Hồ Chí Minh
mong muốn xây dựng một xã hội mới về chất, cao hơn hẳn xã hội cũ - xã
hội xã hội chủ nghĩa và cộng sản Chủ nghĩa. Và để xây dụng chủ nghĩa xã
hội, theo Người, "trước hết cần
có những con người xã hội chủ nghĩa”. Đào tạo con người xã hội chủ
nghĩa không có con đường nào khác ngoài giáo dục tri thức khoa học và lý
tưởng, đạo đức xã hội chủ nghĩa. Đó là nền giáo dục nhằm phát triển con
người toàn diện, vừa “hồng” vừa "chuyên" trong thời đại mới. Và như
vậy, "con người xã hội chủ nghĩa", con người toàn diện, "nhất định phải
có học thức. Cần phải học văn hoá, chính trị, kỹ thuật. Cần phải học lý
luận Mác - Lênin kết hợp với đấu tranh và công tác hàng ngày. Hồ Chí Minh đặc biệt quan tâm đến việc luyện "tài", rèn "đức" cho cán bộ. Bởi, theo
Người, "có tài mà không có đức, ví như một anh làm kinh tế tài chính
rất giỏi nhưng lại đi đến thụt két thì chẳng những không làm được gì ích
lợi cho xã hội, mà còn có hại cho xã hội nữa. Nếu có đức mà không có
tài ví như ông bụt không làm hại gì nhưng cũng không lợi gì cho loài
người".
Đạo đức trong quan niệm của Hồ Chí Minh được coi như
"cái gốc" của cây, "cái nguồn"của sông, do đó, theo Người, "người cách
mạng phải có đạo đức, không có đạo đức dù tài giỏi đến mấy cũng không
lãnh đạo được nhân dân". Như vậy, đạo đức mà Hồ Chí Minh
quan niệm hoàn toàn khác với đạo đức của chế độ thực dân phong kiến
"đầu ngược xuống đất, chân chổng lên trời". Đạo đức mà Người hướng tới
là đạo đức cách mạng, đạo đức của giai cấp công nhân, thực hiện cần,
kiệm, liêm, chính, chí công, vô tư, thực hành nhân, nghĩa, trí, dũng...
chống quan liêu, tham ô, lãng phí. Còn tài là giỏi về kiến thức chuyên
môn và giỏi về cách thức, phương pháp vận dụng kiến thức đó vào hoạt
động thực tiễn, làm cho ích nước lợi dân. Tài không có nghĩa là kiến
thức hoàn chỉnh, tuyệt đối, khép kín, mà là một kiến thức mở, "dĩ bất
biến, ứng vạn biến", luôn được bổ sung và phát triển qua thực tiễn cách
mạng sinh động. Do đó, theo
Người, học tập chủ nghĩa Mác - Lênin là "học tập cái tinh thần xử trí
mọi việc... học tập những chân lý phổ biến của chủ nghĩa Mác - Lênin để
áp dụng một cách sáng tạo vào hoàn cảnh thực tế của nước ta".
Người có tài tham gia hoạt động thực tiễn phải biết dựa vào dân, bởi theo Hồ Chí Minh, "có dân là có tất cả". Người viết:
"Dễ mười lần không dân cũng chịu,
Khó trăm lần dẫn liệu cũng xong".
Là Người luôn quan tâm, chăm lo đến đời sống vật chất và
đời sống tinh thần của nhân dân, Người rất chú trọng việc giáo dục nâng
cao trình độ văn hoá cho dân để dân "làm ăn có ngăn nắp", "bớt mê tín
nhảm", "bớt đau ốm", "nâng cao lòng yêu nước" và "để thành người công
dân đứng đắn”. Người chỉ rõ: "Trình độ văn hoá của nhân dân nâng cao sẽ
giúp chúng ta đẩy mạnh công cuộc khôi phục kinh tế, phát triển dân chủ.
Nâng cao trình độ văn hoá của nhân dân cũng là một việc làm cần thiết để
xây dựng nước ta thành một nước hoà bình, thống nhất, độc lập, dân chủ,
văn minh và giàu mạnh".
Mục đích trọng tâm và xuyên suốt tư tưởng giáo dục Hồ Chí Minh là vì con người, cho con người, là xây dựng con người mới. Nhưng do yêu cầu của mỗi thời kỳ cách mạng khác nhau, Hồ Chí Minh
đã đề ra nhiệm vụ giáo dục khác nhau cho phối hợp. Ở thời kỳ chuẩn bị
thành lập Đảng, Người tập trung vào việc triển khai các lớp huấn luyện
tại Quảng Châu, Trung Quốc nhằm nâng cao trình độ nhận thức cho cán bộ về con đường cách mạng Việt Nam
và cách mạng thế giới. Đến giai đoạn toàn quốc kháng chiến và xây dựng
nền dân chủ, Người kêu gọi sửa đổi giáo dục cho phù hợp với việc đào tạo
nhân tài kháng chiến kiến quốc. Tất cả giáo dục tập trung phục vụ kháng
chiến kiến quốc. Bước sang giai đoạn cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền
Bắc, mục đích giáo dục lại gắn liền với tình hình mới. Đó là thời kỳ rất
cần những con người làm chủ xã hội, làm chủ sản xuất, biết quản lý cơ
quan, xí nghiệp, trường học...
Về phương pháp giáo dục. Tuy Hồ Chí Minh không để lại
cho chúng ta một tác phẩm, một hệ thống lý luận về phương pháp giáo dục,
nhưng những việc làm thiết thực, những bài viết ngắn gọn, súc tích của
Người đã hàm chứa các phương pháp giáo dục mẫu mực. Người lấy nguyên tắc
thống nhất giữa lý luận và thực tiễn làm nguyên tắc cơ bản cho việc xây
dựng các phương pháp về giáo dục. Nguyên tắc này được Người sử dụng
trong việc giáo dục cán bộ, đảng viên, thanh thiếu niên, công nhân, nông
dân, bộ đội, trí thức, học sinh, sinh viên… Nó được coi như "kim
chỉ nam" để lồng dẫn nhận thức, hành động và bồi dưỡng tinh thần yêu
nước cho tất cả mọi người. Hơn nữa, nguyên tắc này có tính chất quyết
định trong việc chuyển hướng giáo dục và trở thành đặc trưng của nền
giáo dục xã hội chủ nghĩa. Người nhấn mạnh: "Học phải suy nghĩ, học phải
liên hệ với thực tế, phải có thí nghiệm và thực hành. Học với hành phải
kết hợp với nhau”.
Để nâng cao trình độ nhận thức của người lao động, Hồ
Chí Minh cho rằng cần có quan điểm dân chủ, thẳng thắn, không nhồi sọ và
cần có sự đối thoại trong quá trình học tập, nhận thức. Người chỉ rõ:
"Mọi người được hoàn toàn tự do phát biểu ý kiến, dù đúng hoặc không
đúng cũng vậy. Song không được nói gàn, nói vòng quanh". "Khi mọi người
đã phát biểu ý kiến, đã tìm thấy chân lý, lúc đó quyền tự do tư tưởng
hoá ra quyền tự do phục tùng chân lý". Từ đó, Hồ Chí Minh
kêu gọi cán bộ, nhà giáo phải biết tôn trọng ý kiến người khác, không
nên có thành kiến đối với các ý kiến trái với ý kiến của mình.
Trong khi viết và nói, Hồ Chí Minh
luôn dùng các khái niệm giản dị, dễ hiểu, nhưng văn phong vẫn trong
sáng, ý tưởng phong phú. Phong cách đó làm cho mọi tầng lớp, mọi người ở
trình độ khác nhau đều hiểu. Đối với Hồ Chí Minh,
viết và nói là làm cho người khác hiểu, cho nên viết và nói phải biết
cách. Viết và nói phải thiết thực, ngắn gọn, rõ ràng, dễ nhớ và phải
xuất phát từ người đọc, người nghe.
Trong giáo dục, theo Hồ Chí Minh,
cần có phương pháp phù hợp với điều kiện giáo dục và đối tượng giáo
dục. Giáo dục phải căn cứ vào "trình độ văn hoá, thói quen sinh hoạt,
trình độ giác ngộ, kinh nghiệm tranh đấu, lòng ham, ý muốn, tình hình
thiết thực của quần chúng". Cần có phương pháp tổ chức giáo dục sao cho
bảo đảm được sự phù hợp giữa điều kiện, hoàn cảnh giáo dục với đối tượng
giáo dục. Người viết: “công nhân, nông dân bận làm ăn, nếu dạy không
hợp với người học, với làm ăn, bắt phải đến lớp có bàn có ghế là không
ăn thua. Phải tuý theo hoàn cảnh làm ăn mà tổ chức học mới duy trì được lâu dài, mới có kết quả tốt".
Hồ Chí Minh
đặc biệt coi trọng việc kết hợp các hình thức giáo dục, không tuyệt đối
hoá bất cứ một hình thức giáo dục nào. Người viết: "Giáo dục dù trong
nhà trường có tốt mấy nhưng thiếu giáo dục trong gia đình và ngoài xã
hội thì kết quả cũng không hoàn toàn". Cuộc đời và sự nghiệp của Hồ Chí Minh luôn là tấm gương sáng cho mọi người noi theo. Trong cuộc sống, trong việc làm... Hồ Chí Minh
luôn là người đi đầu. Phương pháp làm gương là một biện pháp hữu hiệu
nhất trong việc thống nhất giữa lời nói và việc làm. Người dạy: "Mình
phải làm gương, gắng làm gương trong anh em, và khi đi công tác, gắng
làm gương cho dân. Làm gương về cả ba mặt: tinh thần, vật chất và văn
hoá".
Đối với Hồ Chí Minh, tất cả các phương pháp giáo dục như
phương pháp đối thoại, phương pháp học đi đôi với hành, lý luận gắn với
thực tiễn, phương pháp làm gương, phương pháp kết hợp giữa gia đình,
nhà trường và xã hội... đều nhằm mục đích "nêu cao tác phong độc lập suy
nghĩ và tự do tư tưởng", nâng cao nhận thức, chất lượng và hiệu quả
giáo dục. Các phương pháp này vừa mang tính truyền thống, lại vừa hiện
đại, vừa hệ thống, khoa học, lại vừa cụ thể, thiết thực, luôn gắn với
đời sống và thời đại.
Nhận thức sâu sắc về vai trò của giáo dục, Hồ Chí Minh
đã gắn bó cả cuộc đời mình với việc chăm lo, mở mang và xây dựng một nền
giáo dục mới, nền giáo dục xã hội chủ nghĩa - một nền giáo dục mà mọi
người đều có cơ hội phát huy khả năng sáng tạo, mọi người đều được học
hành, không phân biệt giai cấp, tuổi tác, trình độ, giới tính...
Kế tục và quyết tâm thực hiện thắng lợi sự nghiệp to lớn
và cao cả đó của Người, Văn kiện Hội nghị lần thứ hai BCH Trung ương
khoá VIII đã xác định nhiệm vụ và mục đích cơ bản của giáo dục Việt Nam
là "nhằm xây dựng những con người và thế hệ thiết tha gắn bó với lý
tưởng độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, có đạo đức trong sáng, có ý
chí kiên cường xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, công nghiệp hoá, hiện đại hoá
đất nước, gìn giữ và phát huy các giá trị văn hoá của dân tộc, có năng
lực tiếp thu tinh hoa văn hoá nhân loại phát huy tiềm năng của dân tộc
và con người Việt Nam, có ý thức cộng đồng và phát huy tính tích cực của
cá nhân, làm chủ tri thức khoa học và công nghệ hiện đại, có tư duy
sáng tạo, có kỹ năng thực hành giỏi, có tác phong công nghiệp, có tính
tổ chức và kỷ luật, có sức khoẻ, là những người kế thừa xây dựng chủ
nghĩa xã hội vừa "hồng" vừa "chuyên" như lời căn dặn của Bác Hồ. Và mới
đây, tại Đại hội Đảng lần thứ IX, một lần nữa Đảng ta khẳng đinh: "Phát
triển giáo dục và đào tạo là một trong những động lực quan trọng thúc
đẩy sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá, là điều kiện để phát huy
nguồn lực con người, yếu tố cơ bản để phát triển xã hội, tăng trưởng
kinh tế nhanh và bền vững" "Tiếp tục nâng cao chất lượng giáo dục toàn
diện, đổi mới nội dung, phương pháp dạy và học, hệ thống trường lớp và
hệ thống quản lý giáo dục, thực hiện chuẩn hoá, hiện đại hoá, xã hội
hoá. Phát huy tinh thần độc lập suy nghĩ và sáng tạo của học sinh, sinh
viên, đề cao năng lực tự học, tự hoàn thiện học vấn và tay nghề, đẩy
mạnh phong trào học tập trong nhân dân bằng những hình thức giáo dục
chính quy và không chính quy, thực hiện "giáo dục cho mọi người", "cả
nước trở thành một xã hội học tập”, thực hiện phương châm "học đi đôi
với hành", giáo dục kết hợp với lao động sản xuất, nhà trường gắn với xã
hội.
Hơn 50 năm qua, tư tưởng Hồ Chí Minh về phương châm,
chiến lược, mục đích, nội dung, phương pháp giáo dục - đào tạo con người
luôn soi sáng sự nghiệp trồng người ở Việt Nam. Tư tưởng đó không chỉ
là cơ sở lý luận cho việc xác định chiến lược đào tạo con người, chủ
trương, đường lối chỉ đạo phát triển nền giáo dục Việt Nam của Đảng ta
qua các thời kỳ cách mạng, mà còn là những bài học, những kinh nghiệm
thực tiễn giáo dục hết sức sinh động, thiết thực và hiệu quả đối với
người làm công tác giáo dục nói riêng, ngành giáo dục nói chung hiện
nay.
Trong di sản tư tưởng Hồ Chí Minh, tư tưởng về giáo dục luôn có ý nghĩa lý luận và thực tiễn sâu sắc đối với sự nghiệp cách mạng Việt Nam.
Trong sự nghiệp đào tạo nguồn nhân lực cho công cuộc công nghiệp hoá,
hiện đại hoá đất nước, thực hiện mục tiêu "dân giàu, nước mạnh, xã hội
công bằng, dân chủ, văn minh" ở nước ta, tư tưởng đó của Người càng có ý
nghĩa thiết thực.
Tư tưởng giáo dục Hồ Chí Minh không bó hẹp trong việc
giáo dục tri thức, học vấn cho con người, mà có tính bao quát, sâu xa,
nhưng vô cùng sinh động, thiết thực, nhằm đào tạo ra những con người
toàn diện, vừa "hồng" vừa "chuyên", có tri thức, lý tưởng, đạo đức sức
khoẻ, thẩm mỹ...
Tư tưởng Hồ Chí Minh
về giáo dục vừa là thành qủa của sự chắt lọc tinh tế tinh hoa văn hoá
dân tộc và nhân loại, vừa mang đậm hơi thở của cuộc sống. Do vậy, ở Hồ Chí Minh,
lý luận giáo dục và thực tiễn giáo dục có sự thống nhất hữu cơ, không
tách rời nhau. Đúng như Nghị quyết UNESCO đánh giá: "Sự đóng góp quan
trọng về nhiều mặt của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong các lĩnh vực văn hoá,
giáo dục và nghệ thuật là kết tinh của truyền thống hàng ngàn năm của
nhân dân Việt Nam và những tư tưởng của Người là hiện thân của những
khát vọng của các dân tộc trong việc khẳng định bản sắc dân tộc của mình
và tiêu biểu cho việc thúc đẩy sự hiểu biết lẫn nhau”.
Có thể nói, tư tưởng giáo dục Hồ Chí Minh là sự kế thừa,
tiếp thu có chọn lọc, sáng tạo và phê phán từ các tiền đề: Một là, chủ
nghĩa yêu nước, truyền thống văn hoá, giáo dục và tinh thần nhân ái Việt
Nam, Hai là, triết lý giáo dục phương Đông, đặc biệt là triết lý nhân
sinh của Nho, Phật, Lão và Ba là, những tư tưởng tiến bộ thời kỳ cận
đại. Nhưng tiền đề quan trọng nhất, cái tạo nên sự phát triển về chất
trong tư tưởng giáo dục Hồ Chí Minh là chủ nghĩa Mác - Lênin. Trên cơ sở
đó và cùng với quá trình hoạt động thực tiễn cách mạng sinh động, phong
phú của mình, Hồ Chí Minh đã đưa ra quan điểm hết sức sâu sắc và mới mẻ
về vai trò, mục đích, nội đung và phương pháp giáo dục.
Về vai trò và mục đích của giáo dục. Theo Hồ Chí Minh,
giáo dục có vai trò hết sức to lớn trong việc cải tạo con người cũ, xây
dựng con người mới. Người nói: "Thiện, ác vốn chẳng phải là bản tính cố
hữu, phần lớn đều do giáo dục mà nên".
Không những thế, giáo dục còn góp phần đắc lực vào công cuộc bảo vệ và xây dựng đất nước. Người kêu gọi:
"Quốc dân Việt Nam!
Muốn giữ vững nền độc lập,
Muốn làm cho dân mạnh nước giàu,
Mọi người Việt Nam...
phải có kiến thức mới để có thể tham gia vào công cuộc xây dựng nước
nhà, và trước hết phải biết đọc, biết viết chữ quốc ngữ".
Từ thực trạng nền giáo dục dưới sự đô hộ của thực dân
Pháp, Hồ Chí Minh đã vạch trần và lên án chính sách giáo dục của thực
dân Pháp là làm cho "ngu dân dễ trị". Bằng ngòi bút với lời lẽ sắc bén,
Người đã chỉ rõ bộ mặt thực của cái gọi là "khai hoá văn minh" của thực
dân Pháp: những người đến trường được "đào tạo nên những kẻ làm tay sai,
làm tôi tớ cho một bọn thực dân người Pháp", những người không đến
trường thì bị đầu độc bằng các thói hư, tật xấu như rượu chè, cờ bạc,
thuốc phiện. Do vậy, theo
Người, để khẳng định chính mình, mỗi người phải thẳng thắn đấu tranh
với cái lỗi thời, lạc hậu và các tệ nạn xã hội. Người viết: "Phải ra sức
tẩy sạch ảnh hưởng giáo dục nô dịch của thực dân còn sót lại như: Thái
độ thờ ơ đối với xã hội, xa rời đời sống lao động và đấu tranh của nhân
dân, học để lấy bằng cấp, dạy theo
lối nhồi sọ. Và cần xây dựng tư tưởng dạy và học để phục vụ Tổ quốc,
phục vụ nhân dân". Thật vậy, ngay từ những năm đầu bước vào đời, khi
tham gia giảng dạy ở trường Dục Thanh, Phan Thiết, tại đây, bên cạnh
việc truyền bá những kiến thức về văn hoá, Hồ Chí Minh còn đặc biệt chú
trọng đến việc truyền thụ tinh thần, truyền thống yêu nước thương nòi
của dân tộc.
Nhưng mục đích cao cả của Hồ Chí Minh - mục đích mà
Người nguyện suốt đời phấn đấu - là mong cho dân tộc, nhân dân có cuộc
sống ấm no, tự do, hạnh phúc. Bởi, đối với Người, "Nếu nước độc lập mà
dân không hưởng hạnh phúc tự do, thì độc lập cũng chẳng có nghĩa lý gì”.
Suốt đời, Hồ Chí Minh
mong muốn xây dựng một xã hội mới về chất, cao hơn hẳn xã hội cũ - xã
hội xã hội chủ nghĩa và cộng sản Chủ nghĩa. Và để xây dụng chủ nghĩa xã
hội, theo Người, "trước hết cần
có những con người xã hội chủ nghĩa”. Đào tạo con người xã hội chủ
nghĩa không có con đường nào khác ngoài giáo dục tri thức khoa học và lý
tưởng, đạo đức xã hội chủ nghĩa. Đó là nền giáo dục nhằm phát triển con
người toàn diện, vừa “hồng” vừa "chuyên" trong thời đại mới. Và như
vậy, "con người xã hội chủ nghĩa", con người toàn diện, "nhất định phải
có học thức. Cần phải học văn hoá, chính trị, kỹ thuật. Cần phải học lý
luận Mác - Lênin kết hợp với đấu tranh và công tác hàng ngày. Hồ Chí Minh đặc biệt quan tâm đến việc luyện "tài", rèn "đức" cho cán bộ. Bởi, theo
Người, "có tài mà không có đức, ví như một anh làm kinh tế tài chính
rất giỏi nhưng lại đi đến thụt két thì chẳng những không làm được gì ích
lợi cho xã hội, mà còn có hại cho xã hội nữa. Nếu có đức mà không có
tài ví như ông bụt không làm hại gì nhưng cũng không lợi gì cho loài
người".
Đạo đức trong quan niệm của Hồ Chí Minh được coi như
"cái gốc" của cây, "cái nguồn"của sông, do đó, theo Người, "người cách
mạng phải có đạo đức, không có đạo đức dù tài giỏi đến mấy cũng không
lãnh đạo được nhân dân". Như vậy, đạo đức mà Hồ Chí Minh
quan niệm hoàn toàn khác với đạo đức của chế độ thực dân phong kiến
"đầu ngược xuống đất, chân chổng lên trời". Đạo đức mà Người hướng tới
là đạo đức cách mạng, đạo đức của giai cấp công nhân, thực hiện cần,
kiệm, liêm, chính, chí công, vô tư, thực hành nhân, nghĩa, trí, dũng...
chống quan liêu, tham ô, lãng phí. Còn tài là giỏi về kiến thức chuyên
môn và giỏi về cách thức, phương pháp vận dụng kiến thức đó vào hoạt
động thực tiễn, làm cho ích nước lợi dân. Tài không có nghĩa là kiến
thức hoàn chỉnh, tuyệt đối, khép kín, mà là một kiến thức mở, "dĩ bất
biến, ứng vạn biến", luôn được bổ sung và phát triển qua thực tiễn cách
mạng sinh động. Do đó, theo
Người, học tập chủ nghĩa Mác - Lênin là "học tập cái tinh thần xử trí
mọi việc... học tập những chân lý phổ biến của chủ nghĩa Mác - Lênin để
áp dụng một cách sáng tạo vào hoàn cảnh thực tế của nước ta".
Người có tài tham gia hoạt động thực tiễn phải biết dựa vào dân, bởi theo Hồ Chí Minh, "có dân là có tất cả". Người viết:
"Dễ mười lần không dân cũng chịu,
Khó trăm lần dẫn liệu cũng xong".
Là Người luôn quan tâm, chăm lo đến đời sống vật chất và
đời sống tinh thần của nhân dân, Người rất chú trọng việc giáo dục nâng
cao trình độ văn hoá cho dân để dân "làm ăn có ngăn nắp", "bớt mê tín
nhảm", "bớt đau ốm", "nâng cao lòng yêu nước" và "để thành người công
dân đứng đắn”. Người chỉ rõ: "Trình độ văn hoá của nhân dân nâng cao sẽ
giúp chúng ta đẩy mạnh công cuộc khôi phục kinh tế, phát triển dân chủ.
Nâng cao trình độ văn hoá của nhân dân cũng là một việc làm cần thiết để
xây dựng nước ta thành một nước hoà bình, thống nhất, độc lập, dân chủ,
văn minh và giàu mạnh".
Mục đích trọng tâm và xuyên suốt tư tưởng giáo dục Hồ Chí Minh là vì con người, cho con người, là xây dựng con người mới. Nhưng do yêu cầu của mỗi thời kỳ cách mạng khác nhau, Hồ Chí Minh
đã đề ra nhiệm vụ giáo dục khác nhau cho phối hợp. Ở thời kỳ chuẩn bị
thành lập Đảng, Người tập trung vào việc triển khai các lớp huấn luyện
tại Quảng Châu, Trung Quốc nhằm nâng cao trình độ nhận thức cho cán bộ về con đường cách mạng Việt Nam
và cách mạng thế giới. Đến giai đoạn toàn quốc kháng chiến và xây dựng
nền dân chủ, Người kêu gọi sửa đổi giáo dục cho phù hợp với việc đào tạo
nhân tài kháng chiến kiến quốc. Tất cả giáo dục tập trung phục vụ kháng
chiến kiến quốc. Bước sang giai đoạn cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền
Bắc, mục đích giáo dục lại gắn liền với tình hình mới. Đó là thời kỳ rất
cần những con người làm chủ xã hội, làm chủ sản xuất, biết quản lý cơ
quan, xí nghiệp, trường học...
Về phương pháp giáo dục. Tuy Hồ Chí Minh không để lại
cho chúng ta một tác phẩm, một hệ thống lý luận về phương pháp giáo dục,
nhưng những việc làm thiết thực, những bài viết ngắn gọn, súc tích của
Người đã hàm chứa các phương pháp giáo dục mẫu mực. Người lấy nguyên tắc
thống nhất giữa lý luận và thực tiễn làm nguyên tắc cơ bản cho việc xây
dựng các phương pháp về giáo dục. Nguyên tắc này được Người sử dụng
trong việc giáo dục cán bộ, đảng viên, thanh thiếu niên, công nhân, nông
dân, bộ đội, trí thức, học sinh, sinh viên… Nó được coi như "kim
chỉ nam" để lồng dẫn nhận thức, hành động và bồi dưỡng tinh thần yêu
nước cho tất cả mọi người. Hơn nữa, nguyên tắc này có tính chất quyết
định trong việc chuyển hướng giáo dục và trở thành đặc trưng của nền
giáo dục xã hội chủ nghĩa. Người nhấn mạnh: "Học phải suy nghĩ, học phải
liên hệ với thực tế, phải có thí nghiệm và thực hành. Học với hành phải
kết hợp với nhau”.
Để nâng cao trình độ nhận thức của người lao động, Hồ
Chí Minh cho rằng cần có quan điểm dân chủ, thẳng thắn, không nhồi sọ và
cần có sự đối thoại trong quá trình học tập, nhận thức. Người chỉ rõ:
"Mọi người được hoàn toàn tự do phát biểu ý kiến, dù đúng hoặc không
đúng cũng vậy. Song không được nói gàn, nói vòng quanh". "Khi mọi người
đã phát biểu ý kiến, đã tìm thấy chân lý, lúc đó quyền tự do tư tưởng
hoá ra quyền tự do phục tùng chân lý". Từ đó, Hồ Chí Minh
kêu gọi cán bộ, nhà giáo phải biết tôn trọng ý kiến người khác, không
nên có thành kiến đối với các ý kiến trái với ý kiến của mình.
Trong khi viết và nói, Hồ Chí Minh
luôn dùng các khái niệm giản dị, dễ hiểu, nhưng văn phong vẫn trong
sáng, ý tưởng phong phú. Phong cách đó làm cho mọi tầng lớp, mọi người ở
trình độ khác nhau đều hiểu. Đối với Hồ Chí Minh,
viết và nói là làm cho người khác hiểu, cho nên viết và nói phải biết
cách. Viết và nói phải thiết thực, ngắn gọn, rõ ràng, dễ nhớ và phải
xuất phát từ người đọc, người nghe.
Trong giáo dục, theo Hồ Chí Minh,
cần có phương pháp phù hợp với điều kiện giáo dục và đối tượng giáo
dục. Giáo dục phải căn cứ vào "trình độ văn hoá, thói quen sinh hoạt,
trình độ giác ngộ, kinh nghiệm tranh đấu, lòng ham, ý muốn, tình hình
thiết thực của quần chúng". Cần có phương pháp tổ chức giáo dục sao cho
bảo đảm được sự phù hợp giữa điều kiện, hoàn cảnh giáo dục với đối tượng
giáo dục. Người viết: “công nhân, nông dân bận làm ăn, nếu dạy không
hợp với người học, với làm ăn, bắt phải đến lớp có bàn có ghế là không
ăn thua. Phải tuý theo hoàn cảnh làm ăn mà tổ chức học mới duy trì được lâu dài, mới có kết quả tốt".
Hồ Chí Minh
đặc biệt coi trọng việc kết hợp các hình thức giáo dục, không tuyệt đối
hoá bất cứ một hình thức giáo dục nào. Người viết: "Giáo dục dù trong
nhà trường có tốt mấy nhưng thiếu giáo dục trong gia đình và ngoài xã
hội thì kết quả cũng không hoàn toàn". Cuộc đời và sự nghiệp của Hồ Chí Minh luôn là tấm gương sáng cho mọi người noi theo. Trong cuộc sống, trong việc làm... Hồ Chí Minh
luôn là người đi đầu. Phương pháp làm gương là một biện pháp hữu hiệu
nhất trong việc thống nhất giữa lời nói và việc làm. Người dạy: "Mình
phải làm gương, gắng làm gương trong anh em, và khi đi công tác, gắng
làm gương cho dân. Làm gương về cả ba mặt: tinh thần, vật chất và văn
hoá".
Đối với Hồ Chí Minh, tất cả các phương pháp giáo dục như
phương pháp đối thoại, phương pháp học đi đôi với hành, lý luận gắn với
thực tiễn, phương pháp làm gương, phương pháp kết hợp giữa gia đình,
nhà trường và xã hội... đều nhằm mục đích "nêu cao tác phong độc lập suy
nghĩ và tự do tư tưởng", nâng cao nhận thức, chất lượng và hiệu quả
giáo dục. Các phương pháp này vừa mang tính truyền thống, lại vừa hiện
đại, vừa hệ thống, khoa học, lại vừa cụ thể, thiết thực, luôn gắn với
đời sống và thời đại.
Nhận thức sâu sắc về vai trò của giáo dục, Hồ Chí Minh
đã gắn bó cả cuộc đời mình với việc chăm lo, mở mang và xây dựng một nền
giáo dục mới, nền giáo dục xã hội chủ nghĩa - một nền giáo dục mà mọi
người đều có cơ hội phát huy khả năng sáng tạo, mọi người đều được học
hành, không phân biệt giai cấp, tuổi tác, trình độ, giới tính...
Kế tục và quyết tâm thực hiện thắng lợi sự nghiệp to lớn
và cao cả đó của Người, Văn kiện Hội nghị lần thứ hai BCH Trung ương
khoá VIII đã xác định nhiệm vụ và mục đích cơ bản của giáo dục Việt Nam
là "nhằm xây dựng những con người và thế hệ thiết tha gắn bó với lý
tưởng độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, có đạo đức trong sáng, có ý
chí kiên cường xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, công nghiệp hoá, hiện đại hoá
đất nước, gìn giữ và phát huy các giá trị văn hoá của dân tộc, có năng
lực tiếp thu tinh hoa văn hoá nhân loại phát huy tiềm năng của dân tộc
và con người Việt Nam, có ý thức cộng đồng và phát huy tính tích cực của
cá nhân, làm chủ tri thức khoa học và công nghệ hiện đại, có tư duy
sáng tạo, có kỹ năng thực hành giỏi, có tác phong công nghiệp, có tính
tổ chức và kỷ luật, có sức khoẻ, là những người kế thừa xây dựng chủ
nghĩa xã hội vừa "hồng" vừa "chuyên" như lời căn dặn của Bác Hồ. Và mới
đây, tại Đại hội Đảng lần thứ IX, một lần nữa Đảng ta khẳng đinh: "Phát
triển giáo dục và đào tạo là một trong những động lực quan trọng thúc
đẩy sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá, là điều kiện để phát huy
nguồn lực con người, yếu tố cơ bản để phát triển xã hội, tăng trưởng
kinh tế nhanh và bền vững" "Tiếp tục nâng cao chất lượng giáo dục toàn
diện, đổi mới nội dung, phương pháp dạy và học, hệ thống trường lớp và
hệ thống quản lý giáo dục, thực hiện chuẩn hoá, hiện đại hoá, xã hội
hoá. Phát huy tinh thần độc lập suy nghĩ và sáng tạo của học sinh, sinh
viên, đề cao năng lực tự học, tự hoàn thiện học vấn và tay nghề, đẩy
mạnh phong trào học tập trong nhân dân bằng những hình thức giáo dục
chính quy và không chính quy, thực hiện "giáo dục cho mọi người", "cả
nước trở thành một xã hội học tập”, thực hiện phương châm "học đi đôi
với hành", giáo dục kết hợp với lao động sản xuất, nhà trường gắn với xã
hội.
Hơn 50 năm qua, tư tưởng Hồ Chí Minh về phương châm,
chiến lược, mục đích, nội dung, phương pháp giáo dục - đào tạo con người
luôn soi sáng sự nghiệp trồng người ở Việt Nam. Tư tưởng đó không chỉ
là cơ sở lý luận cho việc xác định chiến lược đào tạo con người, chủ
trương, đường lối chỉ đạo phát triển nền giáo dục Việt Nam của Đảng ta
qua các thời kỳ cách mạng, mà còn là những bài học, những kinh nghiệm
thực tiễn giáo dục hết sức sinh động, thiết thực và hiệu quả đối với
người làm công tác giáo dục nói riêng, ngành giáo dục nói chung hiện
nay.
Nguồn:
Tạp chí Triết học
Tạp chí Triết học