Từ khoảng năm 2000 cán cân thương mại của Việt Nam ngày càng nhập siêu. Quy mô nhập siêu lớn đến nỗi gây bất ổn trong kinh tế vĩ mô từ năm 2007. Một trong mấy nguyên nhân chính của hiện tượng nhập siêu nầy có thể thấy trong cơ cấu xuất nhập khẩu của Việt Nam đối với Trung Quốc. Quyết tâm thay đổi cơ cấu nầy không những là cần thiết để cải thiện cán cân thương mại bất quân bình trầm trọng hiện nay mà còn là con đường để Việt Nam phát triển, tiến lên ngang hàng với trình độ phát triển của nước láng giềng phương bắc.
Tính chất “bắc-nam” trong quan hệ kinh tế Việt Trung:
Từ thập niên 1950, một tiêu điểm nổi lên trong quan hệ kinh tế quốc tế là vấn đề “Bắc- Nam”. Các nước phát triển hầu hết là ở bắc bán cầu, các nước chậm tiến ở phía nam. Vấn đề ở chỗ là khoảng cách phát triển giữa Bắc và Nam ngày càng mở rộng. Làm sao để các nước phía Nam phát triển nhanh, thu hẹp khoảng cách với các nước phía Bắc là quan tâm chung của cộng đồng thế giới trong hơn nửa thế kỷ qua.
Sự cách biệt kinh tế giữa các nước phía Bắc với các nước phía Nam phản ảnh rõ nét trong quan hệ ngoại thương. Các nước phía Bắc xuất khẩu hàng công nghiệp còn các nước phía Nam xuất khẩu nguyên liệu, các hàng nông, lâm, thuỷ sản ở dạng thô hoặc sơ chế. Quan hệ buôn bán giữa Bắc với Nam với đặc tính như vậy còn được gọi là ngoại thương theo hàng dọc (vertical trade). Do đó, quá trình thu hẹp khoảng cách phát triển để giải quyết vấn đề Bắc - Nam cũng là quá trình chuyển dịch cơ cấu xuất khẩu của các nước phía Nam để các nước nầy ngày càng xuất khẩu hàng công nghiệp sang phía Bắc, chuyển từ ngoại thương hàng dọc sang ngoại thương hàng ngang (horizontal trade).
Trong khoảng 35 năm qua, một số nước ở phía Nam đã làm được một kỳ tích là nhanh chóng rút ngắn khoảng cách phát triển với phía Bắc, thay đổi hẳn quan hệ ngoại thương từ hàng dọc sang hàng ngang với các nước phía Bắc. Hiện tượng nầy diễn ra ngoạn mục nhất là tại các nước Đông Bắc Á và Đông Nam Á, gọi chung là Đông Á. Tại đây, ngoài Nhật Bản, một nước vừa thuộc phía Bắc vừa là nước nghèo tài nguyên thiên nhiên, hầu hết các nước Đông Á khác cho đến thập niên 1970 điển hình là những nước ở phía Nam mà quan hệ của họ với Nhật, Mỹ và các nước phía Bắc khác mang nặng tính chất ngoại thương hàng dọc. Chẳng hạn, mới gần 30 năm trước đây, vào năm 1980, cơ cấu xuất khẩu của các nước ASEAN còn nghiêng về các mặt hàng nguyên liệu và nông lâm thuỷ sản: Tỉ lệ của các mặt hàng nầy trong tổng xuất khẩu của Thái Lan và Phi-li-pin còn chiếm tới 60%, Malaysia 70% và Indonesia hơn 90%. Nhưng chưa đầy 20 năm sau, vào năm 1999, các tỉ lệ đó chỉ còn 23% tại Thái Lan, 18% tại Malayxia, 7% tại Phi-li-pin và 47% tại Indônêxia. Hiện nay các nước nầy đã trở thành những nước xuất khẩu hàng công nghiệp đáng kể trên thế giới.
Quan hệ Nhật Bản và Trung Quốc mới 20 năm trước đây còn là quan hệ Bắc - Nam. Trước năm 1990, hàng nguyên liệu và các sản phẩm nông lâm thuỷ sản còn chiếm trên 50% tổng nhập khẩu từ Trung Quốc vào thị truờng Nhật Bản. Tuy nhiên tỉ lệ nầy giảm nhanh trong thập niên 1990, còn 23% vào năm 1995 và chỉ còn 17% vào năm 2000. Nói khác đi, hiện nay hàng công nghiệp chiếm tới hơn 80% tổng xuất khẩu của Trung Quốc vào thị trường Nhật (trong tổng xuất khẩu của Trung Quốc ra tất cả thị trường thế giới, tỉ lệ của hàng công nghiệp hiện nay đã tăng lên trên 90%). Có thể nói trong một thời gian ngắn, Trung Quốc đã thành công trong việc chuyển đổi quan hệ ngoại thương với một nước công nghiệp tiên tiến có quá trình phát triển hơn 100 năm và là một nước vốn phụ thuộc vào tài nguyên của các nước phía Nam.
Bây giờ chúng ta xét quan hệ ngoại thương hiện nay giữa Việt Nam và Trung Quốc. Có ba đặc tính đáng chú ý:
Thứ nhất, Việt Nam ngày càng nhập siêu với Trung Quốc. Kim ngạch nhập siêu của Việt Nam với Trung Quốc tăng từ khoảng 200 triệu USD năm 2001 lên 1,4 tỉ năm 2003, gần 9 tỉ năm 2007 và độ 10 tỉ USD trong 11 tháng của năm 2008. Trong mấy năm gần đây, nhập siêu với Trung Quốc chiếm tới gần 2/3 tổng nhập siêu của Việt Nam đối với toàn thế giới. Do đó, cải thiện quan hệ ngoại thuơng với Trung Quốc là biện pháp hữu hiệu để giải quyết tình trạng mất quân bình trầm trọng hiện nay trong cán cân thương mại quốc tế của Việt Nam.
Thứ hai, so với quy mô ngoại thương giữa hai nước Việt Trung, kim ngạch nhập siêu nói trên cũng quá lớn, lớn một cách dị thường. Chẳng hạn vào năm 2007, Việt Nam xuất sang Trung Quốc 3,2 tỉ trong khi nhập từ Trung Quốc tới 11,9 tỉ USD. Nhập khẩu lớn gấp 4 lần xuất khẩu và nhập siêu lên tới mức bằng 3 lần kim ngạch xuất khẩu. Xuất khẩu của Việt Nam sang Trung Quốc tăng rất chậm, từ năm 2001 đến 2007 chỉ tăng 2,3 lần (từ 1,4 tỉ tăng lên 3,2 tỉ USD), trong khi nhập khẩu từ Trung Quốc vào Việt Nam tăng ồ ạt, từ 1,6 tỉ lên 11,9 tỉ trong cùng thời gian. Năm 2002 Trung Quốc vượt Hàn Quốc và năm 2003 vượt Nhật Bản trở thành nước chiếm thị phần lớn nhất trong tổng nhập khẩu của Việt Nam.
Thứ ba, quan sát mặt cơ cấu ta thấy nổi cộm lên tính chất Bắc - Nam trong quan hệ ngoại thương giữa Việt Nam và Trung Quốc. Trung Quốc chủ yếu xuất khẩu hàng công nghiệp sang Việt Nam trong khi Việt Nam chủ yếu xuất khẩu sang Trung Quốc sản phẩm thô hoặc sơ chế khai thác từ các quặng mỏ. Năm 2007, riêng dầu thô, than đá đã chiếm gần 40% tổng xuất khẩu của Việt Nam sang Trung Quốc và nếu kể thêm cao su, gỗ, rau quả, trà, cà phê và những sản phẩm thô sơ khác, tỉ lệ đó lên tới 80%. Hàng công nghiệp chỉ chiếm độ 20%.
Cơ cấu ngoại thương Việt Trung như vừa thấy gợi ta nhiều suy nghĩ. Đây là một quan hệ ngoại thương Bắc - Nam điển hình, một quan hệ mậu dịch hàng dọc thường thấy giữa một nước tiên tiến và một nước chậm phát triển.
Cần xác lập tinh thần Nguyễn Trãi
Phân tích ở trên cho thấy vấn đề của Việt Nam hiện nay là phải làm sao tiến lên giai đoạn phân công hàng ngang trong quan hệ ngoại thương với Trung Quốc. Nói khác đi, Việt Nam phải sản xuất ngày càng nhiều các mặt hàng công nghiệp đủ sức cạnh tranh để thay thế nhập khẩu từ Trung Quốc và thâm nhập được vào thị truờng rộng lớn nầy. Có như vậy mới thoát khỏi tính chất Bắc - Nam hiện nay và cải thiện đuợc cán cân mậu dịch. Về chiến lược và biện pháp cụ thể liên quan đến việc phát triển công nghiệp Việt Nam, tôi đã có dịp trình bày trong cuốn sách xuất bản vài năm trước đây (Biến động kinh tế Đông Á và con đường công nghiệp hoá Việt Nam, NXB Chính trị Quốc gia xuất bản năm 2005, NXB Trẻ tái bản năm 2006).
Ở đây tôi muốn kết nối kết quả phân tích nầy với một vấn đề thời sự đang được chú ý ở Việt Nam. Gần đây, dự án khai thác bô xít ở Tây Nguyên đã được chính phủ quyết định tiến hành. Nhìn từ góc độ gìn giữ môi trường, hiệu quả kinh tế và sự phát triển bền vững ở Tây nguyên, nhiều nhà nghiên cứu, nhà văn hoá đã lên tiếng phản đối dự án nầy. Đại tướng Võ Nguyên Giáp và cựu Phó Chủ tịch nước Nguyễn Thị Bình cũng gửi thư yêu cầu Thủ tướng nghiên cứu lại. Nhưng hình như chính phủ vấn muốn kiên trì thực hiện dự án nên đã quyết định đưa ra Bộ Chính trị lấy ý kiến. Không biết Bộ Chính trị sẽ quyết định ra sao, nhưng có lẽ những người muốn thực hiện dự án tự tin là Bộ Chính trị sẽ ngả theo ý kiến của họ. Nhưng nếu vậy thì đây là vấn đề đáng lo.
Theo tôi, dự án bô-xít Tây Nguyên nếu thực hiện như kế hoạch hiện nay sẽ rất bất lợi cho con đường phát triển của Việt Nam. Không kể đến những điểm đã được các nhà nghiên cứu, nhà văn hoá bàn đến, việc khai thác tài nguyên để xuất khẩu không phải là chính sách khôn ngoan. Xưa nay những nước phát triển được đều là những nước biết dùng tài nguyên chứ không phải biết khai thác và xuất khẩu tài nguyên. Khôn ngoan nhất (như Nhật hoặc Hàn Quốc) là khai thác hoặc mua nguyên liệu ở nước ngoài mang về nước mình chế biến thành những sản phẩm công nghiệp có giá trị. Các sản phẩm dùng nhiều tài nguyên càng về hạ nguồn càng có giá trị tăng thêm cao nên những nước đó phát triển nhanh. Chí ít là khai thác và chế biến tài nguyên, dùng ngay tại nước mình để sản xuất và xuất khẩu các mặt hàng công nghiệp có giá trị tăng thêm cao (như kinh nghiệm của Mỹ và nhiều nước Tây Âu).
Dự án khai thác bô-xít ở Tây Nguyên còn có một đặc tính nữa là công ty liên doanh khai thác là của Trung Quốc và sản phẩm bô xít khai thác ra sẽ được bán sang Trung Quốc. Như vậy thì dự án nầy sẽ làm mạnh thêm tính chất Bắc - Nam trong quan hệ ngoại thương giữa hai nước, một khuynh hướng hoàn toàn bất lợi cho Việt Nam.
Sau khi thắng giặc Minh, giành lại chủ quyền cho đất nước, trong Bình Ngô Đại Cáo, Nguyễn Trãi nhấn mạnh thực thể độc lập, hiên ngang của nước Đại Việt, một đất nước đã sánh vai được với cường quốc phương bắc:
Trải Triệu, Đinh, Lê, Lý, Trần nối đời dựng nước
Cùng Hán, Đường, Tống, Nguyên đều chủ một phương…
Trong thời đại ngày nay, về phương diện phát triển kinh tế, khí phách Nguyễn Trãi phải được thể hiện ở quan hệ ngoại thương hàng ngang giữa hai nước Việt Trung. Việt Nam phải từng bước thoát ly khỏi tính chất Bắc - Nam trong quan hệ mậu dịch với Trung Quốc.
Cũng theo Nguyễn Trãi, so với Trung Quốc, nước Đại Việt trước đây “tuy mạnh yếu có lúc khác nhau, mà hào kiệt không bao giờ thiếu”. Nhân ngày đầu xuân, rất mong Việt Nam ngày nay cũng không thiếu “hào kiệt”.
Tính chất “bắc-nam” trong quan hệ kinh tế Việt Trung:
Từ thập niên 1950, một tiêu điểm nổi lên trong quan hệ kinh tế quốc tế là vấn đề “Bắc- Nam”. Các nước phát triển hầu hết là ở bắc bán cầu, các nước chậm tiến ở phía nam. Vấn đề ở chỗ là khoảng cách phát triển giữa Bắc và Nam ngày càng mở rộng. Làm sao để các nước phía Nam phát triển nhanh, thu hẹp khoảng cách với các nước phía Bắc là quan tâm chung của cộng đồng thế giới trong hơn nửa thế kỷ qua.
Sự cách biệt kinh tế giữa các nước phía Bắc với các nước phía Nam phản ảnh rõ nét trong quan hệ ngoại thương. Các nước phía Bắc xuất khẩu hàng công nghiệp còn các nước phía Nam xuất khẩu nguyên liệu, các hàng nông, lâm, thuỷ sản ở dạng thô hoặc sơ chế. Quan hệ buôn bán giữa Bắc với Nam với đặc tính như vậy còn được gọi là ngoại thương theo hàng dọc (vertical trade). Do đó, quá trình thu hẹp khoảng cách phát triển để giải quyết vấn đề Bắc - Nam cũng là quá trình chuyển dịch cơ cấu xuất khẩu của các nước phía Nam để các nước nầy ngày càng xuất khẩu hàng công nghiệp sang phía Bắc, chuyển từ ngoại thương hàng dọc sang ngoại thương hàng ngang (horizontal trade).
Trong khoảng 35 năm qua, một số nước ở phía Nam đã làm được một kỳ tích là nhanh chóng rút ngắn khoảng cách phát triển với phía Bắc, thay đổi hẳn quan hệ ngoại thương từ hàng dọc sang hàng ngang với các nước phía Bắc. Hiện tượng nầy diễn ra ngoạn mục nhất là tại các nước Đông Bắc Á và Đông Nam Á, gọi chung là Đông Á. Tại đây, ngoài Nhật Bản, một nước vừa thuộc phía Bắc vừa là nước nghèo tài nguyên thiên nhiên, hầu hết các nước Đông Á khác cho đến thập niên 1970 điển hình là những nước ở phía Nam mà quan hệ của họ với Nhật, Mỹ và các nước phía Bắc khác mang nặng tính chất ngoại thương hàng dọc. Chẳng hạn, mới gần 30 năm trước đây, vào năm 1980, cơ cấu xuất khẩu của các nước ASEAN còn nghiêng về các mặt hàng nguyên liệu và nông lâm thuỷ sản: Tỉ lệ của các mặt hàng nầy trong tổng xuất khẩu của Thái Lan và Phi-li-pin còn chiếm tới 60%, Malaysia 70% và Indonesia hơn 90%. Nhưng chưa đầy 20 năm sau, vào năm 1999, các tỉ lệ đó chỉ còn 23% tại Thái Lan, 18% tại Malayxia, 7% tại Phi-li-pin và 47% tại Indônêxia. Hiện nay các nước nầy đã trở thành những nước xuất khẩu hàng công nghiệp đáng kể trên thế giới.
Quan hệ Nhật Bản và Trung Quốc mới 20 năm trước đây còn là quan hệ Bắc - Nam. Trước năm 1990, hàng nguyên liệu và các sản phẩm nông lâm thuỷ sản còn chiếm trên 50% tổng nhập khẩu từ Trung Quốc vào thị truờng Nhật Bản. Tuy nhiên tỉ lệ nầy giảm nhanh trong thập niên 1990, còn 23% vào năm 1995 và chỉ còn 17% vào năm 2000. Nói khác đi, hiện nay hàng công nghiệp chiếm tới hơn 80% tổng xuất khẩu của Trung Quốc vào thị trường Nhật (trong tổng xuất khẩu của Trung Quốc ra tất cả thị trường thế giới, tỉ lệ của hàng công nghiệp hiện nay đã tăng lên trên 90%). Có thể nói trong một thời gian ngắn, Trung Quốc đã thành công trong việc chuyển đổi quan hệ ngoại thương với một nước công nghiệp tiên tiến có quá trình phát triển hơn 100 năm và là một nước vốn phụ thuộc vào tài nguyên của các nước phía Nam.
Bây giờ chúng ta xét quan hệ ngoại thương hiện nay giữa Việt Nam và Trung Quốc. Có ba đặc tính đáng chú ý:
Thứ nhất, Việt Nam ngày càng nhập siêu với Trung Quốc. Kim ngạch nhập siêu của Việt Nam với Trung Quốc tăng từ khoảng 200 triệu USD năm 2001 lên 1,4 tỉ năm 2003, gần 9 tỉ năm 2007 và độ 10 tỉ USD trong 11 tháng của năm 2008. Trong mấy năm gần đây, nhập siêu với Trung Quốc chiếm tới gần 2/3 tổng nhập siêu của Việt Nam đối với toàn thế giới. Do đó, cải thiện quan hệ ngoại thuơng với Trung Quốc là biện pháp hữu hiệu để giải quyết tình trạng mất quân bình trầm trọng hiện nay trong cán cân thương mại quốc tế của Việt Nam.
Thứ hai, so với quy mô ngoại thương giữa hai nước Việt Trung, kim ngạch nhập siêu nói trên cũng quá lớn, lớn một cách dị thường. Chẳng hạn vào năm 2007, Việt Nam xuất sang Trung Quốc 3,2 tỉ trong khi nhập từ Trung Quốc tới 11,9 tỉ USD. Nhập khẩu lớn gấp 4 lần xuất khẩu và nhập siêu lên tới mức bằng 3 lần kim ngạch xuất khẩu. Xuất khẩu của Việt Nam sang Trung Quốc tăng rất chậm, từ năm 2001 đến 2007 chỉ tăng 2,3 lần (từ 1,4 tỉ tăng lên 3,2 tỉ USD), trong khi nhập khẩu từ Trung Quốc vào Việt Nam tăng ồ ạt, từ 1,6 tỉ lên 11,9 tỉ trong cùng thời gian. Năm 2002 Trung Quốc vượt Hàn Quốc và năm 2003 vượt Nhật Bản trở thành nước chiếm thị phần lớn nhất trong tổng nhập khẩu của Việt Nam.
Thứ ba, quan sát mặt cơ cấu ta thấy nổi cộm lên tính chất Bắc - Nam trong quan hệ ngoại thương giữa Việt Nam và Trung Quốc. Trung Quốc chủ yếu xuất khẩu hàng công nghiệp sang Việt Nam trong khi Việt Nam chủ yếu xuất khẩu sang Trung Quốc sản phẩm thô hoặc sơ chế khai thác từ các quặng mỏ. Năm 2007, riêng dầu thô, than đá đã chiếm gần 40% tổng xuất khẩu của Việt Nam sang Trung Quốc và nếu kể thêm cao su, gỗ, rau quả, trà, cà phê và những sản phẩm thô sơ khác, tỉ lệ đó lên tới 80%. Hàng công nghiệp chỉ chiếm độ 20%.
Cơ cấu ngoại thương Việt Trung như vừa thấy gợi ta nhiều suy nghĩ. Đây là một quan hệ ngoại thương Bắc - Nam điển hình, một quan hệ mậu dịch hàng dọc thường thấy giữa một nước tiên tiến và một nước chậm phát triển.
Cần xác lập tinh thần Nguyễn Trãi
Phân tích ở trên cho thấy vấn đề của Việt Nam hiện nay là phải làm sao tiến lên giai đoạn phân công hàng ngang trong quan hệ ngoại thương với Trung Quốc. Nói khác đi, Việt Nam phải sản xuất ngày càng nhiều các mặt hàng công nghiệp đủ sức cạnh tranh để thay thế nhập khẩu từ Trung Quốc và thâm nhập được vào thị truờng rộng lớn nầy. Có như vậy mới thoát khỏi tính chất Bắc - Nam hiện nay và cải thiện đuợc cán cân mậu dịch. Về chiến lược và biện pháp cụ thể liên quan đến việc phát triển công nghiệp Việt Nam, tôi đã có dịp trình bày trong cuốn sách xuất bản vài năm trước đây (Biến động kinh tế Đông Á và con đường công nghiệp hoá Việt Nam, NXB Chính trị Quốc gia xuất bản năm 2005, NXB Trẻ tái bản năm 2006).
Ở đây tôi muốn kết nối kết quả phân tích nầy với một vấn đề thời sự đang được chú ý ở Việt Nam. Gần đây, dự án khai thác bô xít ở Tây Nguyên đã được chính phủ quyết định tiến hành. Nhìn từ góc độ gìn giữ môi trường, hiệu quả kinh tế và sự phát triển bền vững ở Tây nguyên, nhiều nhà nghiên cứu, nhà văn hoá đã lên tiếng phản đối dự án nầy. Đại tướng Võ Nguyên Giáp và cựu Phó Chủ tịch nước Nguyễn Thị Bình cũng gửi thư yêu cầu Thủ tướng nghiên cứu lại. Nhưng hình như chính phủ vấn muốn kiên trì thực hiện dự án nên đã quyết định đưa ra Bộ Chính trị lấy ý kiến. Không biết Bộ Chính trị sẽ quyết định ra sao, nhưng có lẽ những người muốn thực hiện dự án tự tin là Bộ Chính trị sẽ ngả theo ý kiến của họ. Nhưng nếu vậy thì đây là vấn đề đáng lo.
Theo tôi, dự án bô-xít Tây Nguyên nếu thực hiện như kế hoạch hiện nay sẽ rất bất lợi cho con đường phát triển của Việt Nam. Không kể đến những điểm đã được các nhà nghiên cứu, nhà văn hoá bàn đến, việc khai thác tài nguyên để xuất khẩu không phải là chính sách khôn ngoan. Xưa nay những nước phát triển được đều là những nước biết dùng tài nguyên chứ không phải biết khai thác và xuất khẩu tài nguyên. Khôn ngoan nhất (như Nhật hoặc Hàn Quốc) là khai thác hoặc mua nguyên liệu ở nước ngoài mang về nước mình chế biến thành những sản phẩm công nghiệp có giá trị. Các sản phẩm dùng nhiều tài nguyên càng về hạ nguồn càng có giá trị tăng thêm cao nên những nước đó phát triển nhanh. Chí ít là khai thác và chế biến tài nguyên, dùng ngay tại nước mình để sản xuất và xuất khẩu các mặt hàng công nghiệp có giá trị tăng thêm cao (như kinh nghiệm của Mỹ và nhiều nước Tây Âu).
Dự án khai thác bô-xít ở Tây Nguyên còn có một đặc tính nữa là công ty liên doanh khai thác là của Trung Quốc và sản phẩm bô xít khai thác ra sẽ được bán sang Trung Quốc. Như vậy thì dự án nầy sẽ làm mạnh thêm tính chất Bắc - Nam trong quan hệ ngoại thương giữa hai nước, một khuynh hướng hoàn toàn bất lợi cho Việt Nam.
Sau khi thắng giặc Minh, giành lại chủ quyền cho đất nước, trong Bình Ngô Đại Cáo, Nguyễn Trãi nhấn mạnh thực thể độc lập, hiên ngang của nước Đại Việt, một đất nước đã sánh vai được với cường quốc phương bắc:
Trải Triệu, Đinh, Lê, Lý, Trần nối đời dựng nước
Cùng Hán, Đường, Tống, Nguyên đều chủ một phương…
Trong thời đại ngày nay, về phương diện phát triển kinh tế, khí phách Nguyễn Trãi phải được thể hiện ở quan hệ ngoại thương hàng ngang giữa hai nước Việt Trung. Việt Nam phải từng bước thoát ly khỏi tính chất Bắc - Nam trong quan hệ mậu dịch với Trung Quốc.
Cũng theo Nguyễn Trãi, so với Trung Quốc, nước Đại Việt trước đây “tuy mạnh yếu có lúc khác nhau, mà hào kiệt không bao giờ thiếu”. Nhân ngày đầu xuân, rất mong Việt Nam ngày nay cũng không thiếu “hào kiệt”.