DSO - DIỄN ĐÀN SINH VIÊN ĐÀ LẠT

Bạn có muốn phản ứng với tin nhắn này? Vui lòng đăng ký diễn đàn trong một vài cú nhấp chuột hoặc đăng nhập để tiếp tục.

DIỄN ĐÀN SINH VIÊN ĐẠI HỌC ĐÀ LẠT


    Thị trường chứng khoán Việt Nam chưa thực sự là một kênh huy động vốn

    anhday
    anhday
    Trợ lý giám đốc
    Trợ lý giám đốc


    Giới tính : Nam
    Tổng số bài gửi : 1298
    Tuổi : 38
    Cảm ơn : 33

    Thị trường chứng khoán Việt Nam chưa thực sự là một kênh huy động vốn Empty Thị trường chứng khoán Việt Nam chưa thực sự là một kênh huy động vốn

    Bài gửi by anhday 2008-12-31, 17:08



    Khi hình thành thị trường chứng khoán (TTCK), nhiều người hy vọng rằng đây sẽ là một "chỗ trũng” để huy động vốn đầu tư. Nhưng sau ba năm hoạt động, TTCK có lẽ mới dừng ở mức độ tập dượt trên một cái ao nhỏ. Vậy cần làm gì để TTCK phát huy được những mặt tích cực của nó trong sự phát triển của nền kinh tế quốc dân.

    Phác họa một bức tranh toàn cảnh!

    Đến nay đã có 21 loại cổ phiếu được niêm yết với tổng vốn lên l.086 tỷ đồng, hai loại trái phiếu Công ty (đều là của Ngân hàng Đầu tư và phát triển Việt Nam) với số vốn 157 tỷ đồng và 50 loại trái phiếu Chính phủ với 5.400 tỷ đồng, đã có tổng cộng 73 loại chửng khoán với tổng mức vốn hóa khoảng 6.6oo tỷ đồng, gần l,6% GDP.

    Tính đến 30/6/2003 đã có 570 phiên giao dịch được tố chức với tổng trị giá giao dịch đạt gần 3.700 tỷ đồng, trong đó giao dịch cổ phiếu chiếm khoảng 88% và giao dịch trái phiếu gần 12%, Có 12 Công ty chứng khoán với tổng vốn điều lệ là 465 tỷ đồng, thực hiện tất cả các nghiệp vụ chửng khoán, có 7 tố chức kiểm toán độc lập được UBCKNN chấp thuận trong đó có 01 đơn vị nước ngoài, có 5 ngân hàng lưu ký, 3 trong nước và 02 nước ngoài, và có 01 ngân hàng chỉ định thanh toán là Ngân hàng Đầu tư và phát triển Việc Nam.

    Hơn 14.000 tài khoan giao dịch được mở tại các Công ty chửng khoán, trong đó có hơn 90 nhà đầu tư tổ chức, chiếm 0,6%, và 35 nhà đầu tư nước ngoài. Cùng với sự phát triển của thị trường chứng khoán, khung pháp lý cho hoạt động của thị trường này đã hình thành tương đối đầy đủ.

    Diễn biến chính của giá cổ phiếu và chỉ số Vn-lndex trong ba năm qua được thể hiện qua đồ thị sau:

    Trong thời gian đầu, các nhà đầu tư còn đang mong chờ có nhưng điều kỳ diệu xảy ra như những gì họ dã được học, được biết đến. Tâm lý này làm cho số lượng nhà đầu tư rất cao và nhu cầu mua cổ phiếu rất lớn, chỉ số Vn-lndex tăng mạnh từ 150 điểm tới 260 điểm, giá các loại cố phiếu như HAP, REE, TMS, SAM tăng liên tục trong nhiều tháng liền, giá cố phiếu HAP đã từng lên đến mức khoảng 150.000đ/cổ phiếu.

    Tuy nhiên, thời gian này, lượng cố phiếu bán ra thị trường lại rất ít cho có 2 loại, sau đó là 4 loại. Giá cổ phiếu tăng và vượt quá xa giá trị thực của nó. Hiện tượng "bong bóng tài chính" đã xuất hiện. Vì vậy để bảo vệ các nhà đầu tư, UBCKNN đã dưa ra một loạt các biện pháp, trong đó đáng kế nhất là tăng cung chứng khoán, giảm biên độ giao dịch, quy định khối lượng giao dịch tối đa cho một loại chứng khoán...

    Như một đứa bé bị uống thuốc quá liều lượng, những tác động đó đã làm cho giá cổ phiếu giảm dần, sau đó giảm mạnh. UBCKNN và nhiều bộ, ngành có liên quan đã đưa ngay ra nhiều biện pháp, chính sách ưu đãi nhưng kể từ đó, thị trường không thể hồi sinh. Giá cổ phiếu đã giam xuống mức thấp nhất vào giữa năm 2003 chỉ số VN- lndex dao động dưới mức 150.

    Chưa thực sự là một kênh huy động vốn TTCK bao gồm thị trường sơ cấp và thị trường thứ cấp. Thị trường sơ cấp đảm bảo nguồn vốn được huy động thông qua phát hành chứng khoán ra công chúng (POs - Public Oferrings hoặc lPOs - Initial Public Oferring). Thị trường sơ cấp thực sự là kênh huy động vốn trung và dài hạn cho nên kinh tế. Thị trường thứ cấp là nơi thu hút các nhà đầu tư mua đi bán lại chứng khoán, từ đó nâng cao tính thanh khoản cho các loại chứng khoán được giao dịch. Thị trường sơ cấp và thị trường thứ cấp có mối quan hệ rất chặt chẽ và tác động qua lại với nhau. Vậy, hơn ba năm qua, TTCK Việc Nam đã có vai trò như thế nào trong việc huy động vốn phục vụ sụ phát triển kinh tế?

    Bảng 01 cho thấy, số vốn các doanh nghiệp huy động được qua thị trường chứng khoán còn quá nhỏ. Năm 2000 và 2001, số huy động vốn qua kênh này bằng 0, năm 2002 là 0,035 nghìn tỷ đồng. Nếu so sánh với dư nợ cho vay trung và dài hạn đa là con số không đáng kể, so với tổng dư nợ cho vay của cả hệ thống ngân hàng thì con số là không có ý nghĩa gì. Hoạt động của thị trường sơ cấp rất mờ nhạt trong hai năm đầu đi vào hoạt động có duy nhất Công ty cổ phần giấy Hải Phòng (HAPACO) phát hành thêm 01 triệu cổ phiếu mới (tương dương với số vốn 35 tỷ đồng) để huy động vốn cho dự án giấy kraft.

    Đến ngày 30/6/2003 nếu tính cả vốn huy động ngân sách Nhà nước thông qua dấu thầu và bảo lãnh phát hành, đã có 5.400 tỷ đồng trái phiếu Chính phủ, trái phiếu Quỹ hỗ trợ phát triển niêm yết trên thị trường. Có 5 Công ty niêm yết phát hành thêm cố phiếu mới để mở rộng sản xuất kinh doanh, tăng vốn điều lệ với tổng vốn tăng thêm 155,4 tỷ đồng.

    Như vậy, thị trường chứng khoán chưa thực sự trở thành kênh huy động vốn trung và dài hạn cho nền kinh tế.

    Tình trạng trên xuất phát từ những nguyên nhân cơ bản sau:

    1. Những vướng mắc từ cơ chế chính sách của Nhà nước đối với việc phát hành chứng khoán ra công chúng, chẳng hạn, điêu kiện phát hành còn cao, thủ tục phát hành phức tạp, thiếu cơ sở pháp lý cho những vấn đề nảy sinh trong quá trình phát hành chứng khoán...

    2. Mặt bằng lãi suất từ ngân hàng hiện nay khoảng l0,8%/năm, lợi tức kỳ vọng của các cổ đông hiện tại khoảng 15% năm, đó là số kỳ vọng quá cao. Do đó, huy động vốn trên thị trường chửng khoán là "khá đắt" và khó thực hiện.

    3. Để huy động vốn trên thị trường chứng khoán các doanh nghiệp phải thực hiện những thủ tục phức tạp hơn nhiều so với thủ tục xin vay tại các tổ chức tín dụng, chẳng hạn, các doanh nghiệp phải xây dựng bản cáo bạch để công khai hoá tài chính, phương án kinh doanh... hơn nữa, nhiêu doanh nghiệp không muốn tiết lộ những thông tin quan trọng cho đối thủ cạnh tranh nên không mặn mà với hình thức huy động vốn trên thị trường chứng khoán.

    4. Thị trường thứ cấp hoạt động trầm lắng, kém sôi động, tính thanh khoản của thị trường không cao là nguyên nhân sâu xa dẫn đến hoạt động yếu kém của thị trường sơ cấp trong thời gian gần đây. Nguyên nhân là do việc công bố thông tin của các doanh nghiệp niêm yết trong một số trường hợp không trung thực, đánh mất lòng tin của công chúng đầu tư đối với thị trường. Có thể nêu vài ví dụ: Công ty đồ hộp Hạ Long CANFOCO, tổng giám đốc bị truy tố đến sáu tháng mà các nhà đầu tư trên TTCK không hề hay biết Công ty bánh kẹo Biên Hòa đến 30/6/2003 vẫn tiếp tục trì hoãn không công bố thông tin về tình hình hoạt động kinh doanh trong năm 2002...

    Một số giải pháp cấp bách

    Tử những phân tích trên, để TTCK Việt Nam thực sự trở thành một kênh huy động vốn cho phát triển nền kinh tế, cần giải quyết gấp những vấn đề sau đây:

    1- Tăng cường cơ chế quản lý, giám sát công bố thông tin trên thị trường, tạo ra một thị trường minh bạch giúp các nhà dầu tư có thể ra quyết định dựa trên thông tin đầy đủ, hệ thống và chính xác.

    2- Tiếp tục hoàn thiện hành lang pháp lý cho thị trường, thiết lập một môi trường pháp lý ổn định, đồng bộ cho hoạt động kinh doanh chứng khoán. Cụ thể là, từ nay cho đến năm 2006, khẩn tương triển khai nghiên cứu xây dựng và ban hành Luật chứng khoán. Đồng thời tăng cường tính hiệu lực của các văn bản pháp luật trong lĩnh vực hoạt động và kinh doanh chứng khoán. Đẩy mạnh công tác thanh tra, kiểm tra và xử phạt thích đáng đối với các hành vi vi phạm.

    3- Thực hiện các giải pháp “tăng cung - kích cầu”. Trước hết cần nhanh chóng đưa Trung tâm giao dịch chứng khoán Hà Nội vào hoạt động, dành cho các cổ phiếu doanh nghiệp vừa và nhỏ để tạo ra hàng hoá đa dạng cho thị trường. Tăng số lượng Công ty niêm yết, da dạng hoá và nâng cao tỷ trọng các Công ty lớn niêm yết, gắn việc cổ phần hoá với việc niêm yết trên thị trường chứng khoán. Ngoài ra, cần xây dựng và mỏ rộng hoạt động cua các trung gian tài chính, các tổ chức hỗ trợt triển thị trường. Bên cạnh đó, đẩy mạnh phát hành trái phiếu Chính phủ, trái phiếu Công ty, trái phiếu của Quỹ hỗ trợ đầu tư. Phấn đấu đưa tổng giá trị thị trường trường chiếm khoảng 2 – 3% GDP vào năm 2005 và 10 – 15% vào năm 2010.

    4. Thiết lập một môi trường hấp dẫn các nhà đầu tư, các Công ty niêm yết Công ty quản lý quỹ, Công ty chứng khoán như miễn thuế thu nhập doanh nghiệp trong vòng 5 năm đầu hoạt động, không đánh thuế chênh lệch mua bán giá chứng khoán (capital gain). Ngoài ra, UBCKNN không nên can thiệp quá sâu vào hoạt động của các thành viên trên thị trường, nên thực hiện phương châm “các thành viên của thị trường được thực hiện tất cả các hoạt động mà pháp luật không cấm".

    5. Phát triển thị trường OTC (Over-the-counter). Theo kinh nghiệm của Trung Quốc, trước khi có rnột thị trường chứng khoán phát triển như hiện nay, Trung Quốc đã phát triển thị trường OTC khá tốt. Việc phát triển thị trường OTC một mặt nâng cao kinh nghiệm cua các thành viên tham gia thị trường, mức độ quan tâm và nhận thức cua công chúng. Mặt khác, thị trường OTC cũng là cơ hội tốt để tăng cung chứng khoán cho các nhà đầu tư, tạo điều kiện cho các Công ty chưa đủ diều kiện niêm yết có cơ hội tiếp cận với thị trường chứng khoán.

      Hôm nay: 2024-11-11, 02:47